Xử lý các trường hợp giao đất trái thẩm quyền

Theo quy định tại Khoản 19 Điều 2 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật đất đai: "Trường hợp người đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với thửa đất được giao không đúng thẩm quyền trước ngày 01 tháng 7 năm 2004, đất đó không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch nhưng tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận có nhà ở hoặc không có nhà ở thì được xem xét cấp Giấy chứng nhận và phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định."

Tại Khoản 2 Điều 8 Thông tư số 76/2014/TT-BTC ngày 16 tháng 6 năm 2014 hướng dẫn một số điều của Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy định về thu tiền sử dụng đất (được sửa đổi, bổ sung tại Điều 5 Thông tư số 10/2018/TT-BTC ngày 30/01/2018 của Bộ Tài chính) quy định:

"2. Trường hợp được cấp Giấy chứng nhận theo quy định tại khoản 19 Điều 2 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP thì mức thu tiền sử dụng đất theo quy định tại Điều 8 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP"

Căn cứ các quy định nêu trên, trường hợp được cấp có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận thì phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định tại Điều 8 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về thu tiền sử dụng đất, Khoản 2 Điều 8 Thông tư số 76/2014/NĐ-CP ngày 16/6/2014 của Bộ Tài chính hướng dẫn một số điều của Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy định về thu tiền sử dụng đất (được sửa đổi, bổ sung tại Điều 5 Thông tư số 10/2018/TT-BTC ngày 30/01/2018 của Bộ Tài chính).

Còn điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai do Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn, không thuộc chức năng của Bộ Tài chính.

31/03/2020 Từ viết tắt Đọc bài viết

Tình trạng giao đất trái thẩm quyền

Việc cấp Giấy chứng nhận đối với trường hợp được giao đất không đúng thẩm quyền quy định tại Điều 23 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP được xem xét, quyết định đối với từng trường hợp cụ thể sau khi đã làm rõ và xử lý trách nhiệm đối với người giao đất không đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Chỉ cấp Giấy chứng nhận đối với trường hợp đã sử dụng đất ổn định, không tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị hoặc quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn, quy hoạch xây dựng nông thôn mới đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật; trường hợp giao đất làm nhà ở thì chỉ cấp Giấy chứng nhận đối với hộ gia đình, cá nhân đã làm nhà ở và không có chỗ ở nào khác” (Khoản 5 Điều 24 Thông tư số 23/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất). Như vậy, các điều kiện khác có thể đáp ứng nhưng điều kiện “không có chỗ ở nào khác” thì không hợp lý.

Khoản 5 Điều 24 Thông tư số 23/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất: “5. Việc cấp Giấy chứng nhận đối với trường hợp được giao đất không đúng thẩm quyền quy ịnh tại Điều 23 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP được xem xét, quyết định đối với từng trường hợp cụ thể sau khi đã làm rõ và xử lý trách nhiệm đối với người giao đất không đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Chỉ cấp Giấy chứng nhận đối với trường hợp đã sử dụng đất ổn định, không tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị hoặc quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn, quy hoạch xây dựng nông thôn mới đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật; trường hợp giao đất làm nhà ở thì chỉ cấp Giấy chứng nhận đối với hộ gia đình, cá nhân đã làm nhà ở và không có chỗ ở nào khác”. Như vậy, các điều kiện khác có thể đáp ứng nhưng điều kiện “không có chỗ ở nào khác” thì không hợp lý. Đề nghị bỏ điều kiện “đã làm nhà ở và không có chỗ ở nào khác” (Cử tri tỉnh Thanh Hóa).

Về nội dung kiến nghị này, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đã nhận thấy và đã sửa đổi bỏ điều kiện “đã làm nhà ở” cho tất cả các trường hợp giao đất trái thẩm quyền tại khoản 2 Điều 18 của Thông tư số 02/2015/TT-BTNMT.

Theo quy định tại Thông tư nêu trên thì điều kiện “không có đất ở, nhà ở nào khác” chỉ áp dụng đối với trường hợp giao đất không đúng thẩm quyền trong giai đoạn từ ngày 01/7/2004 đến trước ngày 01/7/2014 mà không điều chỉnh đối với trường hợp giao đất không đúng thẩm quyền trước ngày 01/7/2004. Quy định như đã nêu là phù hợp do ngày 01/7/2004 là ngày Luật Đất đai năm 2003 có hiệu lực thi hành, công tác giao đất, cho thuê đất đã được quy định cụ thể và chặt chẽ. Tuy nhiên, thực tế ở một số địa phương do công tác quản lý đất đai bị buông lỏng nên vẫn còn tình trạng giao đất trái thẩm quyền. Để đảm bảo quyền có chỗ ở của người dân theo khoản 3 Điều 59 của Hiến pháp thì pháp luật về đất đai đã có quy định giải quyết cho đối tượng đã được giao đất trái thẩm quyền mà không có chỗ ở nào khác được xem xét cấp Giấy chứng nhận.

CTTĐT