Chồng của hồ xuân hương là ai

 

Chuyện chưa biết về ông Tổng Cóc và mối tình với nữ sĩ Hồ Xuân Hương

Văn nghệ Công An

Ông Tổng Cóc là ai?

Ông Tổng Cóc có tên thường gọi là Kình, quê ở làng Gáp, xã Tứ Xã (Lâm Thao, Phú Thọ). Khi đi lính lên chức Đội, gọi là Đội Kình. Khi làm Phó tổng được gọi là Tổng Kình. Tên chữ của Tổng Kình là Nguyễn Công Hòa. Cóc là tên gọi lúc còn bé. Gọi tên xấu xí thế cho tà ma bớt quấy. Sau này Hồ Xuân Hương có bài thơ Khóc Tổng Cóc nên dân làng mới gọi ông là Tổng Cóc. Tổng Cóc là con cháu quan nghè làng Gáp Nguyễn Quang Thành.

Ông Nguyễn Quang Thành nổi tiếng thần đồng, nhưng nhà nghèo không được đi học. Ông Bò Đen ở làng Kinh Kệ “giàu nứt đố đổ vách” học nhiều, không đỗ đạt, nhưng vốn trọng người tài năng, đã đến ngỏ ý nhận Thành làm con nuôi đón về nuôi ăn học. Mới chín mười tuổi đầu, Nguyễn Quang Thành đã tỏ ra khí chất của bậc hiền nhân quân tử, chối từ với lý do phải ở nhà phụng dưỡng cha mẹ. Cậu bé chỉ hỏi mượn sách của ông Bò Đen để về tự học. Tương truyền mỗi lần mượn cuốn sách của ông Bò Đen, trên đường vừa đi vừa đọc, chưa đến nhà đã thuộc làu làu phải quay lại đổi sách khác. Trong cuốn Lịch Chiều tạp kỷ có ghi rõ: “Ông Nguyễn Quang Thành có tiếng là thần đồng, 24 tuổi thi đỗ tiến sỹ, xuất thân năm Canh Thân, Lê chính Hòa (1680). Ông làm quan trong triều giữ chức “Thiểm đô ngự xử”. Nay còn bia số 80 ở Văn Miếu Quốc Tử Giám.

Là cháu chắt bậc danh gia, Tổng Cóc đã từng theo cửa Khổng sân Trình và lều chõng đi dự thi Hương. Tương truyền Tổng Cóc kết thân với Tú Điếc làng Xuân Lũng và Nho Trâm người làng Kinh Kệ. Ba người quen biết Hồ Xuân Hương trong dịp họ đi thi Hương. Nhờ sự mối manh của họ, mà cụ Đồ Xứ người Nghệ An (đỗ đầu xứ nên khi dạy học họi là Đồ Xứ) đã dẫn con gái Hồ Xuân Hương về làng Sơn Dương cạnh làng Gáp để dạy học.

Tổng Cóc và bạn hữu thường xuyên đến thăm và ngâm vịnh thơ phú với cha con Hồ Xuân Hương. Giai thoại còn để lại nhiều chuyện cụ Đồ Xứ khen tài thơ văn đối đáp của Tổng Kình. Tiếng tăm Tổng Kình đã nổi tiếng khắp vùng từ hồi còn làm lý trưởng. Đó là chuyện Lý Kình đi viếng đám ma mẹ tên Đội Bính ở làng Tứ Mỹ. Đội Bính vốn hống hách, khét tiếng, không thèm đáp lễ lại người vào viếng trước linh cữu mẹ mình. Biết chuyện này, Lý Kình cùng gia nhân tên là anh Ré đến ngay đám ma nhà Đội Bính. Lý Kình thắp hương vái xong đứng ì ở chiếu không chịu ra. Mọi người đều ngơ ngác kinh hãi. Lúc ấy anh Ré đứng bên ngoài nói đánh tiếng: “Ông Lý nhà tôi còn phải chờ quan đội đáp lễ theo đúng cổ lệ mới ra được”. Đội Bính hống hác phải vái tạ anh Lý làng Gác đã ầm chuyện cả một vùng. Lại có chuyện Tú Đanh ghen với Tổng Cóc từ hội Đền Hùng năm trước. Vì không lôi được Hồ Xuân Hương giãn xa Tổng Cóc, nên Tú Đanh đánh tiếng sẽ về làng Gác đánh chết Tổng Cóc. Biết tin này Tổng Cóc cùng anh Ré lên làng Hà Thạch là quê quán Tú Đanh.

Cô chủ quán đầu làng Hà Thạch là nhân tình của Tú Đanh. Nhà cô này có sập gụ trải chiếu miến, cấm người khác ngồi, ngoài Tú Đanh. Tú Đanh đánh lời đe dọa Tổng Cóc có tài thì dẫn xác tới nhà hắn. Thầy trò Tổng Cóc bèn tới nhà, bảo Tú Đanh cho xin lửa hút thuốc. Tú Đanh sai người mang lên hòn than đang cháy đỏ. Hắn ngồi vén cao quần để than lên đùi thổi lửa châm đóm. Mùi thịt cháy tỏa ra vẫn không dọa được Tổng Cóc. Lợi dụng lúc Tú Đanh sơ ý, Tổng Cóc đã phi con dạo nhọn găm trên cái nóc. Khi Tú Đanh thổi lửa lên đùi mình, Tổng Cóc sai anh Ré lấy con dao chẻ đóm. Anh Ré vỗ đùi bạch một tiếng, nhảy phốc lên mái nhà rút con dao nhọn cầm lăm lăm, đứng thế tấn để dọa chủ nhà. Tú Đanh biết không thể địch lại thầy trò nhà Tổng Cóc bèn xuống giọng mời Tổng Cóc dùng trà thuốc.

Tổng Cóc còn là người giàu có, hào phóng quảng gia, nên mới lọt được vào “mắt xanh” của nữ sĩ Hồ Xuân Hương mặc dù ông ta đã có vợ con

Và mối tình với nữ sĩ Hồ Xuân Hương

Làng Sơn Dương và làng Gáp chỉ cách nhau vài trăm mét. Tuy thế làng Gáp lại thuộc tổng Vĩnh Lạc, Sơn Dương thuộc tổng Dụng Hiền. Chức phó tổng của Tổng Cóc không có quyền thế gì ở làng Sơn Dương và càng không áp đặt được cụ đồ Xứ, một nhà nho vốn được thời đại tôn trọng, phải bán con gái cho mình. Hơn nữa tài danh như Hồ Xuân Hương dễ gì chịu sống làm lẽ Tổng Cóc. Giáo sư Lê Chí Viễn đã nhiều lần về Sơn Dương làng Gáp. Về mối tình Hồ Xuân Hương và Tổng Cóc ông viết: “... Tổng Cóc không phải là một anh trọc phú mà là một nho sỹ có phen lều chõng như ai và trong sự gặp gỡ Hồ Xuân Hương có chuyện chữ nghĩa, chứ chẳng phải do đồng tiền...”.

Tổng Cóc cưới Hồ Xuân Hương về làm vợ kế, đương nhiên bị vợ cả và con cái bất bình, nhưng vì “trai làm nên lấy năm bảy vợ”, nên họ phải ngậm đắng nuốt cay. Nhà Tổng Cóc giàu có, có khu ao hồ rộng liền với ao chạ trước cửa đình Chân. Khi cưới Xuân Hương về, ông làm chủ nhà thủy tạ ra hồ nước cho Hồ Xuân Hương dạy học và coi hồ cá cho có việc và để dân làng bớt dị nghị, ông thừa của chơi ngông lấy vợ lẽ về chỉ để ngắm nhìn, vì Hồ Xuân Hương đâu có biết việc đồng áng. Nhà thủy tạ ấy dân làng vẫn gọi là cái chòi. Hồ cá rộng chạy dài từ đình Chân ra gần Bờ Đỗi – một con đập dân làng đắp thêm để đủ hai đường đón hai vị tân khoa vinh quy bái tổ là hai cha con nhà họ Chử cùng đỗ Cống một khoa thi. Do họ đi đò từ Trịnh Xã về, không đi bằng đường bộ, nên con đập có tên là Bờ Đỗi. Thủy tạ là nơi họ thường cùng bạn văn chương ngồi ngắm cảnh, ngâm vịnh. Có khách, bà Hồ Xuân Hương lại sai người đi đánh cá dưới hồ lên đãi bạn. Cá mè dù to hay nhỏ, bà Hồ Xuân Hương chỉ ăn khúc giữa không bao giờ ăn đầu và đuôi. Chuyện này rồi lan ra khắp làng, khắp vùng để biêu riếu bà là người hoang phí.

Dân làng Gáp cách đây vài chục năm vẫn lấy sự khỏe mạnh, lưng ong, đùi dế, da ngăm đen làm tiêu chí cho cái đẹp của phụ nữ. Quanh năm suốt tháng, đàn bà con gái mặc quần đùi, chỉ dịp cỗ bàn hội hè mới mặc váy. Họ thường mặc quần đùi gánh cua nhảy tàu hỏa về bán ở chợ Bắc Qua, Hà Nội. Ai hay vận quần đùi chân lấm được coi là người chịu khó nết na. Ai trắng trẻo xinh đẹp bị coi là người buông tuồng, lêu lổng. Sống trong môi trường ấy, rõ ràng Hồ Xuân Hương sẽ bị tẩy chay cô độc. Những giai thoại của Hồ Xuân Hương ở tứ xã chỉ toàn nói xấu bà. Người ta không hề tự hào về “bà chúa thơ Nôm” ở quê mình. Sống trong cô đơn, bà chỉ lấy thơ để giễu cợt người đời. Dân làng ghét bà nhất là người vợ cả già và người thân của bà ta. Họ đồn thổi bà Xuân Hương là ma mãnh không phải người thường. Một lão Tổng Cóc còn lấy tàu lá chuối tươi lành lặn đắp lên người Hồ Xuân Hương khi bà ngủ. Nếu là người thường ngủ say không biết gì sẽ đè nát tàu lá. Còn nếu là ma thì sẽ biết bỏ tàu lá ra. Quả nhiên sáng ra Tổng Cóc thấy tàu lá còn nguyên được vứt ra khỏi giường. Ông càng hoài nghi Hồ Xuân Hương. Không khuyên nhủ được vợ kế sống hòa nhập với cộng đồng, Tổng Cóc bực mình. Một lần vợ chồng có va chạm, Tổng Cóc giận dỗi viết thư trách móc để dưới gối rồi bỏ đi xa một thời gian. Khi Tổng Cóc về thì Hồ Xuân Hương đã bỏ đi. Mãi lâu sau Tổng Cóc mới dò la biết Hồ Xuân Hương đang sống trong phủ Vĩnh Tường. Tính đếm ngày tháng, Tổng Cóc biết Hồ Xuân Hương đã sinh đẻ. Ông đến phủ Vĩnh Tường chỉ dám lân la ngoài phố, chờ con sen trong phủ ra hỏi mới biết được con gái Hồ Xuân Hương đã chết khi sinh ra. Tổng Cóc đành tay không ra về. Sau đó ông nhận được thư của Hồ Xuân Hương bằng bài thơ Khóc Tổng Cóc. Đó là bài thơ khóc cho mối tình đã chết, chứ không phải thơ khóc người chết. Dù trong đó hàm chứa sự mỉa mai giễu cợt cả dòng giống nhà Tổng Cóc, nhưng vẫn vương vấn chút tình, khác với khóc ông phủ Vĩnh Tường là khóc thật, nhưng khóc vì ơn nghĩa nhiều hơn.

Thời gian sống chung với Hồ Xuân Hương, Tổng Cóc đã bảo bà viết bài văn dài vào bức vách nhưng bằng ván mỏng vào ngôi nhà cổ năm gian. Qua nhiều lần ngập lụt, lau chùi và quá nhiều nhà khoa học bôi chất hiện màu vào rồi phải chùi sạch, làm cho chữ mờ, chữ mất không thể đọc mạch lạc chữ nghĩa của bài văn. Ngôi nhà này khi vong gia bại sản, Tổng Cóc phải bán sang làng Sơn Dương. Hiện ông Kiều Phú ở thôn Đại đình xã Sơn Dương làm chủ ngôi nhà này. Tuy qua mấy trăm năm nhưng ngôi nhà cũ vẫn chắc chắn. Mẹ ông Kiều Phú hơn trăm tuổi là người nhà quê mộc mạc vẫn nhớ lời bố mẹ chồng kể về bà Hồ Xuân Hương và gốc tích ngôi nhà này.

Nhà ông Tổng Cóc sa sút tới mức phải bán cả bàn thờ cho nhà họ Bùi ở trong làng. Hiện nay anh Bùi Thắng cháu chắt nhà họ Bùi còn giữ được hai chiếc bình gỗ mít sơn then mà ngày xưa, theo dân làng kể lại, ông Tổng Cóc sai vợ viết mấy câu thơ rồi phủ ngoài bằng sơn then. Mỗi bình được viết bằng hai dòng chữ Hán như sau: “Thảo lai băng ngọc kính / Xuân tận hóa công hương”, (độc bằng đan quế thượng/ Hỏa phóng bích hoa hương). Cụ Dương Văn Thâm, 90 tuổi, hội viên hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, nhà ở cạnh nhà anh Thắng tạm dịch như sau: “Nói đến tấm gương bằng ngọc/Hóa công cũng chịu lúc tàn xuân”, “Chi bằng lúc ta vin cành quế đỏ/ Tha hồ hoa biếc tỏa hương thơm”. Hiểu theo nghĩa đen là: “Tấm gương trong trắng ví với người con gái trong trắng, nhưng khi hết xuân thì thợ trời cũng chịu. Chỉ biết dựa vào phúc đức, con cháu khi ấy hương thơm sẽ tỏa khắp muôn nơi”.

Cách đây không lâu, con cháu ông Tổng Cóc đến xin “chuộc” lại đôi bình gỗ này nhưng anh Bùi Thắng không cho vì biết rõ sự vô giá của đôi bình vì có liên quan đến “Bà chúa thơ Nôm” của cả nước.

( Theo báo Văn nghệ Công An số 6 – tháng 6/2004)

Hai bài thơ “Khóc Tổng Cóc” và “Khóc ông Phủ Vĩnh Tường” của nữ sĩ Hồ Xuân Hương là những tác phẩm nổi tiếng được người đời thuộc nằm lòng. Dân gian gọi nôm na là thơ khóc chồng. Nhưng hoàn cảnh ra đời cũng như ý tứ của mỗi bài thơ hoàn toàn khác nhau…

Do quan niệm xưa cũ và cách diễn giải hai bài thơ trên không hoàn toàn chính xác nên không ít người hiểu lệch lạc về cuộc sống cũng như nhân cách của bà. Đôi lời nhân dịp ngày xuân như một giải mã cho người thơ tài năng bậc nhất trên thi đàn Việt Nam cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19.

Về bài thơ "Khóc Tổng Cóc"

Cuộc đời Hồ Xuân Hương hàm chứa cả sự tài năng xuất chúng và long đong bất hạnh ngay từ khi mới chào đời. Cha bà, ông Hồ Phi Diễn là một ông đồ nghèo rời quê  làng Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An ra Kinh Bắc dạy học. Tại đây ông lấy một người vợ lẽ họ Hà, sinh ra Hồ Xuân Hương. Những năm thơ bé, Hồ Xuân Hương lẽo đẽo theo cha khắp nơi, lúc ở Hà Nội, khi lên Phú Thọ, Vĩnh Phúc… Vừa độ trăng tròn, lúc cha bà đang dạy học ở  Kẻ Gáp (thuộc xã Tứ Xã, Lâm Thao, Phú Thọ ngày nay), Hồ Xuân Hương đã nức tiếng là một tài năng thơ phú. Biết bao nho sinh  ngấp nghé cửa nhà cụ đồ. Trong đó có Tú Điếc, Nho Trâm, Tú Đanh, Tú Kình…

Một dịp Tết, các chàng trai si tình đem quà biếu thầy, cũng là dịp để tỏ tình với cô con gái cụ đồ. Hồ Xuân Hương đã ra vế đối bắt ai đối được thì mới được vào: Tối ba mươi khép cửa càn khôn kẻo nữa Ma Vương đưa quỷ tới. Trong số những người tham gia câu đối đó, câu đối lại của Tú Kình được cho là hay hơn cả: Sáng mồng một mở then tạo hóa để cho thiếu nữ rước xuân vào. Xem vế đối của Tú Kình, cụ đồ rất khen ngợi là có khiếu văn chương.

Sống ở Kẻ Gáp một thời gian dài, Hồ Xuân Hương vốn đã biết Tú Kình (tên gọi ở nhà là Cóc cho ma quỷ đỡ nhòm ngó) là một trang nam nhi có tiếng ngang tàng, hào hiệp giúp đỡ người nghèo khó, yếu thế. Gia tộc Tú Kình lại nổi tiếng giầu có và thuộc hàng chức sắc ở địa phương. Tâm hồn người con gái đa cảm khi nghe cha khen tài văn thơ của Tú Kình lòng Xuân Hương càng thêm yêu mến. Ngặt nỗi Tú Kình đã có vợ, có con. Nhưng dường như cái duyên trời đã buộc họ lại thì khó gỡ nổi.

Chồng của hồ xuân hương là ai
Chân dung nữ sĩ Hồ Xuân Hương.

Quan niệm xưa trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng, Hồ Xuân Hương cũng không vượt qua nổi. Tú Kình lấy Hồ Xuân Hương về làm lẽ, rất cưng chiều. Ông ta xây một cái nhà giữa ao cho vợ lẽ ở, vừa trông coi ao cá vừa làm nơi dạy học. Cái nhà thủy tọa ấy cũng trở thành nơi đàm đạo thơ phú của vợ chồng Tú Kình với đám nho sinh trong vùng. Hồ Xuân Hương tuy phận lẽ mọn nhưng không phải lao động nặng nhọc, lại ăn trắng mặc trơn giao du với nhiều trai làng nên không khỏi bị vợ cái con cột và anh em nhà Tú Kình soi mói, đàm tiếu, so bì. Thậm chí họ còn độc mồm độc miệng phao tin Hồ Xuân Hương là ma quỷ hiện hình mồi chài Tú Kình.

Dù lãng mạn, tân tiến đến đâu Tú Kình cũng không vượt qua được những thói tục và suy nghĩ cổ hủ của dân làng. Các bậc cha chú trong họ tộc cùng vợ con Tú Kình ráo riết cật vấn, truy xét cái cách tôn thờ vợ của anh ta. Tiếng bấc tiếng chì cùng với những lời vu ác độc cho Xuân Hương khiến Tú Kình dần nghi ngờ vợ mình. Anh ta tìm đến một thầy tướng số nhờ xem Xuân Hương có phải người bình thường. Thầy tướng bảo Tú Kình về lấy một tầu lá chuối tươi lành lặn rải xuống giường vợ. Nếu hôm sau ngủ dậy tầu chuối héo, rách thì là người thường còn tầu lá vẫn tươi nguyên không rách nát thì hẳn đó là quỷ ma đội lốt người.

Tú Kình u mê làm theo. Hồ Xuân Hương với tính cách mạnh mẽ, phóng khoáng không chịu được trò hủ lậu đó của chồng, bà đã vất cái lá chuối đó ra khỏi giường. Hôm sau Tú Kình nhìn lá chuối vẫn tươi thì bắt đầu tỏ ra nghi kỵ và xa lánh vợ. Tú Kình viết thư để lại trách cứ Hồ Xuân Hương và bỏ nhà đi trong khi Hồ Xuân Hương đang bụng mang dạ chửa. Bị chồng hắt hủi, Hồ Xuân Hương cũng rời nhà Tú Kình. Bà gặp và gá nghĩa với ông Phủ Vĩnh Tường cũng là một nho sinh nổi tiếng thời ấy.

Sau khi Hồ Xuân Hương ra đi, Tú Kình trở về nhà nhưng vẫn để tâm dò la tin tức vợ. Biết Hồ Xuân Hương lấy ông Phủ Vĩnh Tường và hạ sinh một con gái nhưng đứa bé chết non, Tú Kình rất hối hận. Hồ Xuân Hương chẳng phải "Hồ ly tinh" như mọi người đồn thổi, nhưng anh ta không còn mặt mũi nào gặp lại vợ.

Sau những biến cố này, Hồ Xuân Hương cũng căm giận Tú Kình và họ hàng nhà chồng. Bà liền viết bài thơ Khóc Tổng Cóc gửi cho Tú Kình để tỏ nỗi lòng mình và ngầm trách cứ, anh em họ hàng nhà Tú Kình chính là nguyên nhân làm cho vợ chồng bà tan vỡ, con chết. Bài thơ than trách cho duyên phận mình hẩm hưu rơi vào nhà Cóc, cái nơi toàn cóc, nhái, ễng ương, chẫu chuộc mà thôi. Bài thơ được dân gian gọi nôm na là bài thơ khóc chồng: "Chàng Cóc ơi, chàng Cóc ơi/ Thiếp bén duyên chàng có thế thôi/ Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhẻ/ Ngàn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi".

Thơ khóc chồng mà không có vẻ gì thương xót, đau lòng. Nó tưng tửng, cười cợt, giễu nhại. Đám người hủ bại, kém cỏi, xấu bụng trong họ hàng nhà Cóc. Song trên hết nó là lời tuyệt tình nhắn gửi đến người chồng phụ bạc, nhẫn tâm: Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhẻ, khẳng định dứt khoát chấm dứt mọi tình cảm giữa hai người. Dấu bôi vôi-  một quan niệm dân gian vùng Phú Thọ, nếu bôi vôi vào lưng cóc thì đi đâu rồi cóc cũng lại tìm về, nhưng với Xuân Hương dấu bôi vôi cũng mất rồi. Ngàn vàng khôn chuộc, có đem ngàn vàng ra mà chuộc cũng không chuộc lại được mối tình ấy nữa: Ngàn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi.

Cái tài tình ở bài thơ này là nữ sĩ Xuân Hương đã sử dụng toàn các từ như: cóc, nhái, chuộc, chàng, bén, nòng nọc… để chỉ họ hàng nhà Tú Kình (Tổng Cóc). Họ là một giuộc như nhau. Vì thế bài thơ dân gian quen gọi là thơ khóc chồng không phải để khóc mà là lời tuyên bố tuyệt tình với người chồng tên cúng cơm là Cóc cùng họ hàng nhà anh ta, cho dù bà đặt tên bài thơ là Khóc Tổng Cóc .

Chồng của hồ xuân hương là ai
Những minh họa trong thơ Hồ Xuân Hương.

Về bài thơ “Khóc ông Phủ Vĩnh Tường”

Đối với Hồ Xuân Hương, ông Phủ Vĩnh Tường vốn không phải người xa lạ. Chàng nho sinh này vốn từng giao du và mê đắm cô con gái cụ đồ Hồ Phi Diễn khi cụ ngồi dạy học ở Kẻ Gáp. Biết tài thơ văn của Hồ Xuân Hương và cuộc tình duyên không may mắn của bà, nên ông đã ngỏ lời xin được gá nghĩa. Ông Phủ Vĩnh Tường rất yêu chiều vợ và coi trọng bà là bạn văn chương. Tuy nhiên hạnh phúc ngắn ngủi với ông Phủ Vĩnh Tường chẳng kéo dài được bao lâu.

Cuộc đời của con người tài hoa bạc mệnh Hồ Xuân Hương lại gặp sóng gió khi ông Phủ Vĩnh Tường đột ngột qua đời sau khi kết duyên với bà vỏn vẹn được hai mươi bảy tháng trời. Cái chết của ông Phủ Vĩnh Tường để lại cho Hồ Xuân Hương một nỗi thương xót khôn nguôi. Bà đã làm bài thơ Khóc ông Phủ Vĩnh Tường với lời lẽ chân thành, tình nghĩa, tiếc nuối: "Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ôi/ Cái nợ ba sinh đã trả rồi/ Chôn chặt văn chương ba thước đất/ Tung hê hồ thỉ bốn phương trời/ Cán cân tạo hóa rơi đâu mất/ Miệng túi càn khôn khép lại rồi/ Hăm bảy tháng trời đà mấy chốc/ Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ôi".

Tuy vẫn mang đậm phong cách phóng túng Hồ Xuân Hương nhưng lời khóc toát lên tấm lòng của người vợ đau xót trước mất mát quá lớn và bổn phận làm vợ bà đã làm xong: Cái nợ ba sinh đã trả rồi/ Chôn chặt văn chương ba thước đất.

Với bà, ông Phủ Vĩnh Tường còn là một bạn văn chương, một bậc nam nhi tráng khí: Tung hê hồ thỉ bốn phương trời: hồ, thỉ (cung, tên) chỉ cái chí của ông tung hoành trong thiên hạ, không luẩn quẩn chuyện gia đình như Tổng Cóc. Trong trách vụ xã hội ông Phủ Vĩnh Tường là một ông quan tốt, công bằng, nay ông chết đi là một mất mát lớn: Cán cân tạo hóa rơi đâu mất…

Thời gian làm vợ ông Phủ Vĩnh Tường tuy quá ngắn ngủi (đà mấy chốc) nhưng đó là quãng thời gian hạnh phúc và đáng nhớ nhất. Câu mở đầu và câu khép lại bài thơ bà đều khẳng định đó là mối duyên tình trăm năm của đời bà: Hăm bảy tháng trời đà mấy chốc/ Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ôi. Bài thơ Khóc ông Phủ Vĩnh Tường là lời ai điếu thống thiết của nữ sĩ Hồ Xuân Hương trước mất mát quá lớn của đời mình.

Cuộc đời bà Chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương đến nay chưa giải mã hết. Một màn huyền thoại bao phủ quanh cuộc đời người phụ nữ tài hoa và bất hạnh này. Đó cũng là lý do khiến nhiều tác phẩm nổi danh của bà chưa xác định được hoàn cảnh, xuất xứ ra đời. Việc làm sáng tỏ hoàn cảnh xuất xứ và ý tứ của hai bài thơ "khóc chồng" của bà Hồ Xuân Hương khiến chúng ta càng thêm kính trọng, yêu quý và cảm thông với một con người tài hoa được thế giới tôn vinh là nữ sĩ hàng đầu châu Á.

Nguyễn Trọng Tân