Đi hành hương là gì

Hành hương chính là phương pháp mà một tín đồ bày tỏ lòng thành của mình đối với một tôn giáo nào đó. Vậy hành hương chính là gì vậy? Chúng ta hãy cùng tìm hiểu trong bài viết sau đây nhé!

Hành hương là gì vậy?

Trong Phật giáo, hành hương chính là một nghi thức thì thắp hương sau đó đi nhiễu xung quanh điện phật và xung quanh tháp hoặc là chỉ việc thắp hương để lễ bái trước tượng bồ tát, tượng phật… Đây chính là khái niệm nguyên thủy số 1 của hành hương. Tuy nhiên, sau này ý nghĩa của đến từ hành hương đã được mở rộng hơn rất nhiều nhiều, thậm chí chúng ta còn dùng đến từ hành hương để nói về du lịch văn hóa, đặc biệt chính là những chuyến đi tham quan những di tích lịch sử, tín ngưỡng tôn giáo.

Bạn đang xem: Hành hương chính là gì

Bạn đang đọc: Hành hương là gì vậy? Ý nghĩa và mục đích của hành hương

Đi hành hương là gì
Hành hương chính là phương pháp mà một tín đồ bày tỏ lòng thành của mình đối với một tôn giáo nào đó

Nhiều người thường hay là nhầm lẫn giữa hành hương , đi du lịch, điều này cũng thực hiện tăng thêm nội dung cho chuyến đi Tuy nhiên cũng đồng thời làm giảm và thậm chí thực hiện mất đi ý nghĩa thuần khiết số 1 của từ hành hương.

Trong một chuyến đi có thể kết hợp nhiều mục đích với nhau, điều này được bắt nguồn đến từ sự tích hợp của những dạng thức văn hóa trong thời kỳ nguyên sơ với nhau , cũng do thói quen của thế nhân.

Ý nghĩa , và mục đích của hành hương

Ý nghĩa của hành hương

Tham khảo thêm: Hướng dẫn phương pháp chuyển tiếp cuộc gọi trên Android – hocdauthau.com

Hành hương là một trong những phong tục có từ lâu đời, trước cả khi người ta biên soạn ra kinh thánh. Nó được hiểu là một cuộc lữ hành của những tín đồ trong tôn giáo về nơi đã được cho chính là thánh hiến do hoạt động của một vị giáo chủ hoặc đã có một cuộc hiển linh tại đây.

Mục đích của cuộc hành hương

những tín đồ sẽ đi tới nơi thánh hiển linh để dâng lên một lời cầu nguyện trong một không gian đặc biệt thích hợp.Vì chính là giai đoạn cuối cùng của một cuộc hành hương nên việc kính viếng tại nơi thiêng liêng số 1 sẽ đã được chuẩn bị rất nhiều tỉ mỉ đến từ những nghi thức thanh tẩy , sẽ kết thúc trong một buổi họp nhóm để những tín đồ có thể hiểu đã được bản thân họ thuộc cộng đoàn tôn giáo nào.

Như vậy, mọi người có thể hiểu đã được mục đích của việc hành hương là tìm kiếm Thiên chúa để đã được gặp gỡ người trong một hoàn cảnh hết sức thành kính. Nhờ đó mà có thể cảm nhận đã được tình yêu của chúa dành cho chúng ta, nhận ra thành ý của những người bề trên đối với mọi người , và may mắn thi hành, để xây dựng những bước chân vững mạnh hơn ở trên con đường hành hương tiến về quê hương thật sự chính là Nước Trời.

Lòng nhiệt tình của những linh mục hướng dẫn và niềm khao khát đã được tìm mắc Chúa của những tín đồ là yếu tố làm cho cuộc hành hương gặt hái đã được nhiều hoa thơm, trái ngọt. Mỗi mọi người cũng cần phải ý thức được và tích cực tham gia những cuộc hành hương để nhận ra những sai sót của bản thân và nhìn lại những ân huệ được chúa ban cho.

Làm thế nào để phân biệt được hành hương và du lịch?

Xét theo tiêu chuẩn trong lịch sử thì chúng ta có thể phân biệt đã được hành hương , và du lịch như sau:

Hành hương chính là làm kính viếng một nơi nào đó , và nhiều tôn giáo coi đó chính là bổn phận cơ bản số 1 mà tất cả những tín đồ đều phải thực hiện. Trong lịch sử Kitô giáo ở châu u vào thời trung cổ, những cuộc hành hương thường mang ý nghĩa đền tội, do những tín đồ sẽ phải chịu rất nhiều nhiều khó khăn, vất vả, mệt nhọc ở trên quãng đường xa xôi cũng như những nghiêm trọng có thể mắc phải ở trên đường đi hành hương. Không nói thì bất kỳ ai cũng có thể đoán được vào thời kỳ đó, những cuộc hành hương sẽ được thực hiện bằng phương pháp đi bộ, chỉ dùng thuyền hoặc tàu khi sang sông , và vượt biển.

Đi hành hương là gì
Hành hương chính là làm kính viếng một nơi nào đó

Tham khảo thêm: Vốn đầu tư mạo hiểm (Venture Capital) là gì vậy? Xu hướng trong đầu tư mạo hiểm

Du lịch là một hiện tượng trong nền văn hóa của thời đại mọi người chỉ bằng phương pháp dùng một số những loại phương tiện giao thông để di chuyển như: máy bay, ô tô, tàu thủy… Điều này dần dần trở nên phổ biến hơn , thường đã được tổ chức thành từng đoàn nhiều người chứ không lẻ tẻ giống như những cuộc hành hương trước đây , dĩ nhiên chính là nó cũng mang rất nhiều ý nghĩa , mục đích khác nhau: Có thể chính là tôn giáo, có thể là văn hóa, cũng có thể đơn giản chính là một cuộc nghỉ dưỡng…

Và với nguyên nhân , mục đích gì thì chúng ta rất dễ thể nhận biết được hành hương và du lịch dựa trên nguồn gốc lịch sử: hành hương có đến từ rất nhiều lâu , và du lịch thì chỉ là một hiện tượng mới xuất hiện trong thời gian gần đây.

Tuy nhiên, trong thời kỳ ngày nay, chúng ta chưa dễ gì có thể tìm đã được một tiêu chuẩn nào đó để phân biệt được hành hương , và du lịch. Như mọi người vừa nói, trong thời xưa hành hương chính là đi bộ , và mang ý nghĩa đền tội. Đến ngày nay, những cuộc hành hương rất nhiều ít khi đã được thực hiện bằng phương pháp đi bộ , tất cả những trung tâm hành hương đều được xây dựng, trang bị hết sức tiện nghi, hiện đại giống như những khách sạn hoặc nhà trọ ở những khu trung tâm du lịch.

Không ít người đã đưa ra một phương pháp phân biệt dựa vào mục đích tổ chức chuyến đi: những cuộc hành hương cũng sẽ được tổ chức với mục đích tôn giáo còn việc đi du lịch có rất nhiều nhiều mục đích , và đã được thúc đẩy bởi những lý do khác nhau.

Nhưng ở trên thực tế lại không hề đơn giản như vậy. Thí dụ như một giáo xứ nào đó ở Hà Nội tổ chức cho những em thiếu nhi đi tắm biển ở Hạ Long Tuy nhiên trên đường đi học lại ghé thăm nhà thờ đức mẹ, như vậy cũng sẽ đã được coi chính là một chuyến du lịch hay hành hương? Đổi lại, một nhóm người đi viếng nhà thờ đức mẹ nhưng ở trên đường đi lại tham quan một số danh lam thắng cảnh thì chuyến đi này được gọi chính là hành hương hay du lịch? Có thể vì điều này rất nhiều khó phân biệt nên trong những năm gần đây đã xuất hiện một cụ đến từ thay cho “hành hương” là “du lịch tôn giáo”.

Như vậy, bất kỳ một chuyến du lịch hay là du lịch tôn giáo nào đều có thể trở thành cuộc hành hương khi con người luôn hướng về cội nguồn của mình, cội nguồn của sự hạnh phúc và tận điểm của cuộc đời.

Xem thêm: Xét nghiệm GGT (gamma-glutamyl transferase)

Tìm hiểu thêm: Điều trị bằng điện từ trường cao tần (sóng ngắn, sóng cực ngắn, vi sóng)

HÀNH HƯƠNG

Lm Phêrô Trần Đình, Dalat

Dẫn nhập

Đối với Hội Thánh Việt Nam, năm nay chẳng những là “năm truyền giáo” nhưng còn là “năm thánh”.

Một việc đạo đức truyền thống của năm thánh là hành hương. Vì thế, chúng ta tìm hiểu khái quát về “hành hương” để hiểu rõ hơn ý nghĩa của nó, ngõ hầu việc đạo đức này sẽ đem lại nhiều lợi ích thiêng liêng cho chúng ta.

Bài này sẽ trình bày 4 điểm :

        1. Ý nghĩa và mục đích của hành hương;

        2. Hành hương trong Cựu ước;

3. Hành hương trong Tân Ước;

        4. Ý nghĩa thần học của hành hương.

I. Ý NGHĨA VÀ MỤC ĐÍCH CỦA HÀNH HƯƠNG

1. Ý nghĩa của hành hương

Hành hương là một phong tục có từ rất lâu, trước khi Kinh Thánh được biên soạn. Đó là cuộc lữ hành của các tín hữu về một nơi được thánh hiến do một cuộc hiển linh hoặc do hoạt động của một vị giáo chủ.

2. Mục đích của hành hương

a/ Các tín hữu tới các nơi được thánh hiến để dâng lời cầu nguyện trong một khung cảnh đặc biệt thích hợp.

b/ Và vì là giai đoạn cuối cùng của cuộc hành hương, nên việc kính viếng nơi thánh thường được chuẩn bị bằng những nghi thức thanh tẩy và kết thúc trong một buổi nhóm họp làm cho các tín hữu ý thức họ thuộc cộng đoàn tôn giáo nào.

Như thế, hành hương là một cuộc tìm kiếm Thiên Chúa và gặp gỡ Người trong một khung cảnh phụng tự.

II. HÀNH HƯƠNG TRONG CỰU ƯỚC

1. Hướng về những thánh điện cổ.

Trước khi thống nhất các thánh điện nhờ cuộc cải cách của Giosias, tại Giêrusalem có nhiều trung tâm hành hương, nhiều nơi thiêng gắn liền với lịch sử thánh, nơi dân chúng đến để tìm kiếm Thiên Chúa.

Lịch sử các tổ phụ chỉ thuật lại một cuộc hành hương duy nhất (St 35, 1-7), nhưng khi trình bày những cuộc thần hiển với Abraham ở Sikem hoặc ở Mămbrê (St 12, 6t ; 18, 1), với Isaac ở Bersabê (St 26, 24), với Giacob ở Bêtel hoặc ở Penuel (St 28, 12 ; 35, 9 ; 32, 31), các nhà tường thuật tìm cách hợp thức hoá việc chấp nhận những thánh điện của dân Canaan, vì chính cha ông cũng đã sử dụng. Họ cắt nghĩa những đặc tính của thánh điện này : có các bàn thờ (St 12, 7t ; 13, 4 ; 26, 25 ; 33, 20), bia (St 28, 18), các cây thiêng (St 12, 6 ; 18, 1 ; 21, 33…).Họ thiết lập các nghi thức mà những người hành hương về sau này sẽ thực hành : cầu khẩn tên Giavê dưới nhiều danh hiệu (St 12, 8 ; 13, 4 ; 21, 33 ; 33, 20), xức dầu (St 28, 18 ; 35, 14), thanh tẩy (St 35, 2tt), thuế thập phân (St 14, 20 ; 28, 22).

Sau đó người ta nhận thấy trong một thời gian rất lâu vẫn còn những buổi họp tôn giáo và rồi những cuộc hành hương đến những thánh điện quan trọng khác nhau như Sikem (Gios 24, 25), Bêtel (1Sm 10, 3 nói rõ những người hành hương ; 1V 12, 29tt ; Am 5, 5 ; 7, 13), Bersabê (Am 5, 5). Chúng ta cũng thấy xuất hiện những thánh điện Ophra (Qa 6, 24) và Sorêa là nơi tưởng nhớ những lần thiên thần của Giavê hiện ra, thánh điện Silô, nơi để hòm bia và cũng là nơi mỗi năm người ta cử hành một ngày lễ của Giavê (Qa 21, 19). Có lẽ Elqana đã cùng với các bà vợ của ông “lên đền” trong dịp lễ này (Is 1, 3).

Những câu chuyện cổ còn thuật lại các buổi hội họp tôn giáo ở Mispa (1Sm 7, 5t), ở Gilgal (1Sm 11, 15), ở Gabaon (1V 3, 4), ở Đan (1V 12, 19). Nhưng từ khi Đavít rước hòm bia vào Giêrusalem (2Sm 6) và từ khi Salomon xây cất đền thờ (1V 5-8), những cuộc hành hương về Giêrusalem giữ một tầm quan trọng vượt bực (1V 12, 27).

Từ lâu, luật của giao ước  (Xh 23, 14-17) bắt buộc mọi nam công dân phải trình diện trước Giavê mỗi năm ba lần. Luật này phải được thi hành vào các dịp lễ trong các thánh điện trên toàn quốc.

2. Hướng về thánh điện duy nhất

Cuộc cải cách của Giosias do Ezekias phác hoạ (2V 18, 4.22 ; 2 Ks 29-31) huỷ bỏ những thánh điện địa phương và chỉ định cử hành lễ Vượt Qua (2V 23 ; 2 Ks 35) và hai ngày lễ khác là Lễ Ngũ Tuần và Lễ Lều ở Giêrusalem (Đnl 16, 1-17).

Cuộc cải cách này tìm cách tụ tập dân chúng trước Thiên Chúa của họ và đề phòng họ khỏi lây nhiễm việc tôn thờ ngẫu tượng địa phương.

Sau thời lưu đầy, Đền thờ Giêrusalem từ nay sẽ là thánh điện duy nhất. Chính nơi đây, vào những dịp đại lễ trong năm, khách hành hương từ khắp xứ Palestina và cả đến những kẻ tản mác càng ngày càng đông ở ngoại quốc cũng đều trẩy về.

Những Thánh vịnh lên đền (Tv 120-134) diễn tả lời cầu nguyện và tâm tình của khách hành hương : họ trìu mến nhà Chúa và thành thánh; họ tin, thờ lạy và vui mừng được thực hiện sự hiệp thông sâu xa của dân Chúa trong buổi hội họp phụng vụ.

Kinh nghiệm này thường hay xảy ra ở Israel, nó đem lại cho hi vọng cánh chung một ý nghĩa đặc biệt : Israel quan niệm “ngày cứu rỗi” theo như những cuộc hành hương, giống cuộc hội họp của dân tộc và sau cùng là của cả lương dân (Is 2, 2-5; 60 ; 66, 18-21 ; Mik 7, 12 ; Zêc 14, 16-19 ; Tb 13, 11).

III. HÀNH HƯƠNG TRONG TÂN ƯỚC

1/ Về điểm này Tân Ước không đem lại điều gì mới mẻ.

Cũng như dân chúng, vào năm 12 tuổi, Đức Giêsu “lên” đền thờ Giêrusalem với cha mẹ để tuân giữ lề luật (Lc 2, 41t), và trong thời gian thi hành sứ mệnh, Người còn “lên” đó vào những dịp lễ khác nữa (x. Ga 2, 13 ; 5, 1 ; 7, 14 ; 10, 22t ; 12, 12).

Chính Thánh Phaolô, hơn 25 năm sau ngày Chúa chịu nạn, vẫn giữ việc hành hương vào dịp lễ Ngũ Tuần (Cv 20, 16 ; 24, 11).

2/ Điều mới mẻ là : Đức Giêsu loan báo đền thờ sẽ bị tàn phá (Mc 13, 2). Hơn nữa, với sự sống lại của Đức Giêsu, từ nay trọng tâm việc phụng tự của các tín hữu là chính con người vinh quang của Người, “Đền thờ mới” và duy nhất (Ga 2, 19-21 ; 4, 21-23).

Bởi đó, chính đời sống đức tin của dân Thiên Chúa được diễn tả như cuộc hành hương cánh chung đích thực (2C 5, 6tt ; Dt 13, 14). Cuộc hành hương này là cuộc xuất hành do Đức Giêsu hướng dẫn (Cv 3, 15 ; 5, 31 ; Dt 2, 10). Mục đích của  nó chính là những thực tại thiêng liêng : núi Sion, Giêrusalem trên trời, cuộc hội họp của những người con đầu lòng được ghi khắc trên trời (Dt 12, 22 tt) và một đền thờ là chính “Chúa, Thiên Chúa toàn năng… và là Con Chiên” (Kh 21, 22-26).

Vì quá gắn chặt với lịch sử nên Hội Thánh không từ chối giá trị những cuộc hành hương đến những nơi ngày xưa Đức Kitô đã ơ,û hoặc đến những nơi mà Người đã hiện ra với các thánh. Hội Thánh coi những cuộc tụ họp tại những nơi ghi dấu hoạt động của Đức Kitô như một dịp để các tín hữu hiệp thông trong đức tin và kinh nguyện. Hơn nữa, nhờ những dịp ấy, Hội Thánh sẽ tìm cách nhắc nhở cho họ biết họ đang được Chúa hướng dẫn trên đường tiến về Người.

IV. Ý NGHĨA THẦN HỌC CỦA HÀNH HƯƠNG

Để kết thúc bài này, chúng ta rút ra những ý nghĩa thần học của hành hương từ những gì đã trình bày trên đây.

1/ Ý nghĩa chính yếu của mọi cuộc hành hương là gặp gỡ Thiên Chúa trong đền thờ, đặc biệt là những nơi ghi dấu sự hiện diện đặc biệt của Người.

Đành rằng, đền thờ nào cũng thiêng thánh, cũng là nơi ta có thể gặp Chúa, nhưng vẫn có những nơi đặc biệt gợi lên trong chúng ta những tâm tình đạo đức mãnh liệt hơn.

Hành hương đến Bêthel, người ta không thể không nghĩ đến việc Giacop đã vật lộn với Thiên Chúa đến hừng đông, để đời sống đạo của họ sẽ nỗ lực và phấn đấu nhiều hơn.

Hành hương đến mộ của hai Thánh Phêrô và Phaolô, lẽ nào không thúc bách chúng ta sống đạo cách anh hùng?

Hành hương về linh địa Lavang, làm sao ta không nghĩ đến việc Đức Mẹ bế Chúa Con đến thăm dân đang trốn tránh cuộc bắt đạo ác liệt, để thêm lòng tin tưởng và cậy trông ?.

Chính Đức Giêsu phục sinh cũng đã chọn Galilê, nơi của bao kỷ niệm, để “hò hẹn” với các môn đệ thân yêu của Người (x. Mc 16, 7) chứ không phải  nơi nào khác.

2/ Dầu vậy, nếu Đức Giêsu đã muốn phá đền thờ bằng gỗ đá để xây dựng một ngôi đền thờ mới và duy nhất (x. Ga 2, 19-21; 4, 21-23), thì hành hương phải là dịp nhắc nhở cho chúng ta biết thờ phượng Chúa cách chân thật : “Này chị, hãy tin tôi : đã đến giờ các người thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem nữa” (Ga 4, 21).

Như vậy, hành hương đích thực chính là bước theo Đức Kitô : “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14, 6).

3/ Dịp hành hương cũng là cơ hội giúp chúng ta, trong thinh lặng và cầu nguyện, tra vấn ý nghĩa của cuộc đời, để hiểu rằng thân phận con người là lữ thứ  :

“Ở trên đời, con là thân lữ khách” (Tv 119 (118), 19). Dân Cựu ước đã cảm nghiệm như vậy.

Tân Ước đã đón nhận ý tưởng hành hương bằng cách kitô hoá nó : xem cuộc đời kitô hữu như cuộc hành trình đi về quê hương đích thực là Nước Trời (x. Dt 11, 13-16 ; 1Pr 1, 17).

Chỉ có Chúa mới thật sự là đích điểm cuộc đời người kitô hữu, là sự yên nghỉ của chúng ta :

“Lạy Chúa, Ngài đã đã dựng nên chúng con hướng về Ngài, tâm hồn chúng con xao xuyến bao lâu chưa được nghỉ yên trong Ngài”. (Thánh Âu Tinh)

“Như nai rừng mong mỏi tìm đến suối nước trong,

hồn con cũng trông mong được gần Ngài, lạy Chúa.

Linh hồn con khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống.

Bao giờ con được đến, vào bệ kiến Tôn Nhan ?”.

(Tv 42, 2-3)

4/ Vì thế, hành hương mang đặc tính cánh chung, là cuộc xuất hành do Đức Giêsu hướng dẫn (Cv 3, 15 ; 5, 31; Dt 2, 10), mục đích là những thực tại thiêng liêng : Giêrusalem trên trời (Dt 12, 22tt) và một đền thờ là chính “Chúa, Thiên Chúa toàn năng và là Con Chiên” (Kh 21, 22-26).

Kết luận

Hành hương nếu được hiểu đúng đắn sẽ có tác dụng lớn lao trong việc xây dựng đời sống đạo. Người tín hữu hiểu cuộc đời mình là lữ thứ và sẽ biết gắn bó với những giá trị vững bền mối mọt không thể gậm nhấm được, để họ biết tìm Chúa và gắn bó với Chúa nhiều hơn.